Độc Hoạt – Mở hướng điều trị cho bệnh xương khớp

Độc hoạt còn gọi là đương quy lông, là một cây thuộc họ Hoa tán. Đây là loài dược liệu có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, được trồng ở Việt Nam từ những năm 70 ở một số vùng như Lạng Sơn, Sapa.

Độc Hoạt – Vị thuốc quý cho bệnh xương khớp

Trong y học cổ truyền độc hoạt được sử dụng làm thuốc bổ thận, chữa các chứng bệnh chân tay tê bì, co quắp. Các nghiên cứu theo y học hiện đại đã chỉ ra những tác dụng của độc hoạt trên bệnh lý viêm khớp và nhiều tác dụng mới khác.

Độc hoạt có tên khoa học là Angclica pubescens, thuộc họ Hoa tán. Bộ phận dùng làm thuốc là rễ.

Nghiên cứu thành phần hoá học độc hoạt có chứa coumarin, acid phenolic, steroid và các nguyên tố nulceosid, cùng các hợp chất khác.

Tác dụng theo y học cổ truyền

Độc hoạt có vị cay ngọt, hơi đắng, tính bình. Quy kinh can, thận. Tác dụng khu phong, trừ thấp, giảm đau.

Được dùng trong dân gian để chữa phong thấp, chân tay tê bì, co quắp, chữa cảm gió, đau đầu, đau răng.

Tác dụng theo y học hiện đại

Tác dụng giảm đau, chống viêm.

Dùng mô hình gây đau bằng acid acetic tiêm trong màng bụng trên chuột, thấy độc hoạt có tác dụng giảm đau ở mức vừa phải.(1)
Chiết xuất nước thô của rễ cây độc hoạt (RAB) được coi là một tác nhân thảo dược có chọn lọc và hiệu quả trong việc làm giảm chứng viêm chân sau dai dẳng và chứng tăng hô hấp ở chuột. RAB bao gồm 60% chiết xuất etanol (1,5 g / kg, ) ức chế đáng kể tình trạng viêm ở ba mô hình, bao gồm thử nghiệm phù nề tai chuột do xylene gây ra, thử nghiệm sưng tấy ở chuột bằng lòng trắng trứng và thử nghiệm sưng hạt băng vệ sinh chuột .

Một thành phần trong rễ độc hoạt là tinh dầu (ERAB) có tác dụng chống viêm và giảm đau. Tác dụng đối với tình trạng viêm do sự ức chế hoạt động của chất gây viêm và làm giảm yếu tố tiền viêm. (2).

Ngoài ra 4 coumarin bao gồm columbianadin, columbianetin acetate , bergapten và umbelliferone ở mức liều thử nghiệm (10 mg/ kg, đường tiêm), đã được chứng minh là có hoạt tính chống viêm và giảm đau đáng kể. Chiết xuất methanol từ rễ độc hoạt là osthol có tác dụng ức chế đối với chứng phù nề chân sau của chuột do carrageenan gây ra và đối với sự quằn quại do axit acetic gây ra ở chuột. Cơ chế giảm đau có liên quan đến sự ức chế ngoại vi của các chất gây viêm và có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương.(3)

Ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương

Nghiên cứu chỉ ra dịch chiết cồn của độc hoạt ở mức liều 18 mg / kg / ngày có thể sửa chữa cấu trúc màng phospholipid trong các phần khác nhau của vỏ não chuột và thể vân, cũng như cải thiện hàm lượng IL-2 của chuột mô hình lão hóa và chống lại các gốc tự do và tổn thương do viêm, do đó cải thiện khả năng học tập và ghi nhớ của chuột trên mô hình thử nghiệm mê cung nước trên chuột của một mô hình lão hóa não do D-galactose đã được thực hiện để nghiên cứu khả năng học tập và trí nhớ.

Nước sắc độc hoạt mức liều (1,08 mg / ml, ig ) có thể cải thiện khả năng định vị, học tập và ghi nhớ của chuột mô hình, rút ngắn thời gian điều hướng trong mê cung nước. Ở mức liều cao hơn (3,125 g / kg, ig ) có thể ức chế sự biểu hiện của các enzym gây quá trình oxy hoá malondialdehyde (MDA) và tăng hoạt động của chất chống oxy hoá Superoxide dismutase (SOD) để ức chế sự phá hủy gốc tự do.(2).

Ảnh hưởng đến hệ tim mạch

Axit γ -aminobutyric (10 mg / kg, iv ) được phân lập từ chiết xuất nước của độc hoạt cho thấy rằng nó có thể điều trị nhiều loại rối loạn nhịp tim.

Hơn nữa, osthole chiết xuất từ rễ của độc hoạt đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự co cơ trơn của khí quản, gây ra tác dụng giãn không đặc hiệu trên khí quản bằng cách ức chế cAMP và cGMP phosphodiesterase (2).

Hoạt động tẩy giun

Chiết xuất độc hoạt sử dụng các dung môi khác nhau có tác dụng khá khác nhau trong việc điều trị bệnh giun chỉ và 100% tỷ lệ chết của giun đũa (2).

Tác dụng khác

Osthole cũng cho thấy tác dụng tạo xương trên nguyên bào xương cả in vitro và in vivo . Quá trình tạo xương qua trung gian của Osthole có liên quan đến việc kích hoạt đường truyền tín hiệu protein liên kết yếu tố phản ứng cAMP / cAMP (CREB) (2).

Tài liệu tham khảo

(1). Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, tập 1, trang 807-810.

(2) Yaqi Lu, et al, Traditional Chinese Medicine of Angelicae Pubescentis Radix: A Review of Phytochemistry, Pharmacology and Pharmacokinetics, Front. Pharmacol., 18 March 2020

(3) Yuh-Fung Che , Anti-Inflammatory and Analgesic Activities from Roots of Angelica pubescens

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *